Khuyến nghị chơi game đánh bài đổi thưởng uy tín

game bài đổi thưởng

SỞ Y TẾ HÀ NỘI

game bài đổi thưởng

UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO VẢY TRÊN BỀ MẶT NHÃN CẦU

Ung thư biểu mô tế bào vảy trên bề mặt nhãn cầu (OSSN) bao gồm một loạt các bệnh liên quan đến sự phát triển bất thường của các tế bào biểu mô vảy loạn sản trên bề mặt mắt. Đây là một bệnh ung thư thường được tìm thấy ở những bệnh nhân da trắng (da trắng) lớn tuổi. Tuy nhiên bệnh vẫn xuất hiện ở bệnh nhân Việt Nam.

I. ĐỊNH NGHĨA

Ung thư biểu mô tế bào vảy trên bề mặt nhãn cầu (OSSN) bao gồm một loạt các bệnh liên quan đến sự phát triển bất thường của các tế bào biểu mô vảy loạn sản trên bề mặt mắt. Đây là một bệnh ung thư thường được tìm thấy ở những bệnh nhân da trắng (da trắng) lớn tuổi. Tuy nhiên bệnh vẫn xuất hiện ở bệnh nhân Việt Nam. Bệnh xuất hiện dưới dạng một nốt màu trắng hoặc hồng vàng trên bề mặt nhãn cầu. Các mạch máu lớn màu đỏ giãn ra để nuôi khối u trên bề mặt nhãn cầu cũng có thể được nhìn thấy.
Gồm 2 tổn thương chính: CIN và SCC

Theo định nghĩa, tân sinh trong biểu mô kết mạc (CIN) không xâm lấn; màng đáy vẫn còn nguyên vẹn và lớp đệm bên dưới không bị ảnh hưởng. Đó là một khối u phát triển chậm phát sinh từ một tế bào đột biến duy nhất trên bề mặt nhãn cầu.(CIN) còn được biết đến với các tên khác bao gồm bệnh Bowen, loạn sản vảy kết mạc, u biểu mô nội biểu mô và chứng loạn sản sừng biểu mô.
Ung thư biểu mô tế bào vảy (SCC) mô tả một tổn thương ác tính trong đó các tế bào biểu mô loạn sản đã xâm nhập vào màng đáy giác mạc, có khả năng di căn.

game bài đổi thưởng

II. YẾU TỐ NGUY CƠ

Một số người tin rằng việc tiếp xúc quá nhiều với ánh sáng mặt trời từ các hoạt động ngoài trời như tắm nắng, chơi gôn, câu cá và các môn thể thao khác có thể dẫn đến khối u này. Ở Châu Phi, các nghiên cứu đã chỉ ra tỷ lệ nhiễm HIV cao tới 79% ở bệnh nhân OSSN so với 14% trong dân số nói chung. Tại Hoa Kỳ, một nghiên cứu được thực hiện tại Viện Mắt Bascom Palmer đã phát hiện ra rằng OSSN có thể là một dấu hiệu của HIV chưa được chẩn đoán.

III. CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT

  • Mộng thịt
  • dày sừng quang hóa
  • Loạn sừng nội biểu mô lành tính
  • U hạt sinh mủ
  • Kết mạc / u nang rìa
  • U máu kết mạc
  • Tăng sản giả biểu mô
  • Khối u ác tính
  • Nối ruồi

IV. ĐIỀU TRỊ

Phương pháp điều trị phụ thuộc vào kích thước và mức độ của bệnh ung thư. Đôi khi khối u được phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn trong phòng mổ. Đôi khi ghép màng ối là cần thiết để phủ lên bề mặt kết mạc bị thiếu khi khối u đã được lấy ra. Đôi khi bệnh này có thể được điều trị bằng thuốc nhỏ mắt hóa trị trong vài tuần hoặc tối đa một năm. Đôi khi tiêm hóa trị có thể chữa khỏi ung thư.

Điều trị nội khoa: Việc sử dụng các tác nhân hóa trị liệu tại chỗ, bao gồm Interferon-α2b, mitomycin C và 5-fluorouracil, có ưu điểm là điều trị toàn bộ bề mặt nhãn cầu và tránh các biến chứng phẫu thuật như bờ dương tính, sẹo và thiếu tế bào gốc vùng rìa.

Điều trị phẫu thuật: Kỹ thuật không chạm được sử dụng trong quá trình cắt bỏ các tổn thương OSSN. Các tổn thương CIN và SCC liên quan đến rìa nên được cắt bỏ với ít nhất 3-4mm không liên quan đến bờ kết mạc. Rìa kết mạc nên được cắt rộng vì trên thực tế, những mô trông có vẻ không liên quan tới khối u lại vẫn có thể chứa các tế bào loạn sản.

Sau đó, cồn tuyệt đối được bôi lên giác mạc để nới lỏng biểu mô khỏi màng đáy, sau đó rửa sạch bằng nhiều nước sau 30 đến 40 giây. Tất cả các biểu mô giác mạc có liên quan và bất kỳ màng giác mạc có liên quan nào sau đó cần được cạo sạch bằng lưỡi Beaver hoặc miếng bọt biển phẫu thuật. Điều rất quan trọng là không làm tổn hại lớp Bowman bên dưới. Sử dụng kỹ thuật lạnh đông – áp lên các cạnh kết mạc, vùng rìa liên quan và lớp củng mạc phía dưới để tiêu diệt bất kỳ tế bào loạn sản nào còn sót lại.

Liệu pháp áp lạnh rất quan trọng vì nó giúp mở rộng biên độ phẫu thuật một cách hiệu quả. Nếu kết quả dương tính trở lại hoặc nếu có bất kỳ lo ngại nào về mô ác tính có thể còn sót lại, hóa trị liệu tại chỗ có thể được sử dụng sau khi cắt bỏ. Cả loạn sản biểu mô và loạn sản biểu mô giác mạc đều được coi là tổn thương lành tính và được điều trị bằng cách cạo giác mạc và mở rộng rìa kết mạc nếu có.

Trong các trường hợp SCC, nên dùng một vạt củng mạc mỏng sau khi loại bỏ tổn thương kết mạc, sau đó bôi cồn tuyệt đối lên củng mạc. Khu vực phẫu thuật cắt bỏ có thể để hở hoặc đóng lại bằng mảnh ghép màng ối.

Trong trường hợp xâm lấn cục bộ vào mắt hoặc hốc mắt, cắt bỏ nhãn cầu hoặc nạo vét tổ chức hốc mắt có thể được thực hiện với sự cộng tác của bác sĩ phẫu thuật tạo hình mắt. Sinh thiết hạch giữ cửa – nhóm hạch đầu tiên mà các tế bào ung thư lây lan đến cũng có thể phù hợp để phân giai đoạn bệnh. Bức xạ có thể được coi là liệu pháp bổ trợ trong một số trường hợp nhất định không tuân theo các phương thức điều trị khác.

V. TIÊN LƯỢNG

Tỷ lệ tái phát của OSSN sau phẫu thuật cắt bỏ có thể xảy ra trong hơn một nửa số trường hợp và có thể xảy ra nhiều năm sau đó.
OSSN tái phát có thể phát triển nhanh chóng và xâm lấn hơn
Loại ung thư này hiếm khi di căn đến các vị trí xa.

Tác giả: Khoa Kết Giác Mạc – game bài đổi thưởng

Nguồn: //eyewiki.org/Ocular_Surface_Squamous_Neoplasia; //www.willseye.org/conjunctival-squamous-cell-carcinoma

Bài viết liên quan